Tình huống thuế TNCN_Số 3.2020

06/17/2020 09:40:19 AM

Câu1: Nhằm thúc đẩy doanh số bán hàng, tinh thần phấn đấu làm việc của nhân viên giữa các phòng ban với nhau, công ty có đề ra thưởng doanh số cho phòng ban vào cuối mỗi quý, nếu phòng ban đó đạt được doanh số công ty quy định. Một người của phòng ban sẽ đại diện nhận tiền cho phòng ban, phòng ban tự sử dụng tiền thưởng đó, không thưởng cho từng cá nhân. Vậy thưởng cho tập thể phòng ban có thuộc diện khấu trừ thuế thu nhập cá nhân hay không? (theo thông tư 111/TT-BTC thì  người nộp thuế thu nhập cá nhân là cá nhân), việc thưởng này là thưởng cho một tập thể phòng ban.

Trả lời:

Căn cứ quy định tại khoản 3 điều 2 Thông tư số 111/2013/TT-BTC:

“đ.3.2) Khoản chi dịch vụ khác phục vụ cho cá nhân trong hoạt động chăm sóc sức khoẻ, vui chơi, giải trí thẩm mỹ... nếu nội dung chi trả ghi rõ tên cá nhân được hưởng. Trường hợp nội dung chi trả phí dịch vụ không ghi tên cá nhân được hưởng mà chi chung cho tập thể người lao động thì không tính vào thu nhập chịu thuế”.

Theo quy định nêu trên thì chỉ những khoản chi dịch vụ khác phục vụ cho cá nhân trong hoạt động chăm sóc sức khoẻ, vui chơi, giải trí thẩm mỹ...Trường hợp nội dung chi trả phí dịch vụ không ghi tên cá nhân được hưởng mà chi chung cho tập thể người lao động thì không tính vào thu nhập chịu thuế.

Trường hợp công ty có chính sách thưởng doanh số cho phòng ban, nếu phòng ban đó đạt được doanh số công ty quy định, nếu một người của phòng ban đại diện nhận tiền cho phòng ban thì người nhận tiền thay cho phòng ban đó phải chịu thuế TNCN, vì đây là 1 khoản tiền lương, thưởng gắn với công việc.

           

Câu 2: Trường hợp doanh nghiệp do đặc thù công việc chỉ cần thuê lao động ngắn hạn, chỉ phát sinh một vài ngày.....việc lặp đi lặp lại nhiều tháng tùy theo công việc phát sinh, nhưng thuê thường xuyên hàng tháng (VD: DN xây dựng cần lao động đổ bê tông, hoặc làm tại công trường một vài ngày trong tháng, hay DN thương mại mỗi khi có xe hàng về thuê một đội bốc vác để xuống hàng, sau đó trả tiền cho từng người, mỗi tháng không ổn định, chỉ thuê khi cần). Những lao động này có thể làm nhiều nơi như vậy hoặc làm cố định một chỗ nào đó. Vậy trường hợp DN trả tiền thuê cho những lao động này mà dưới 2 triệu/tháng thì có phải khấu trừ thuế TNCN của họ không?

Trả lời:

Căn cứ điểm i, khoản 1, Điều 25 Thông tư số 111/2013/TT-BTC hướng dẫn:

“Các tổ chức, cá nhân trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động (theo hướng dẫn tại điểm c, d, khoản 2, Điều 2 Thông tư này) hoặc ký hợp đồng lao động dưới ba (03) tháng có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu (2.000.000) đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân…”

Theo đó, Trường hợp công ty trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động và dưới 2 triệu/tháng thì không phải khấu trừ thuế TNCN trước khi trả thu nhập.

 

Câu 3: Trong năm 2019, nhân viên có nơi đăng ký hộ khẩu tại Bắc Ninh, ký hợp đồng cộng tác viên và đã nhận được hoa hồng với Công ty tại quận Hai Bà Trưng Hà Nội, Công ty đã khấu trừ 10% thuế TNCN. Mã số thuế của nhân viên do công ty mở tại CCT Hai Bà Trưng- HN.

Vậy năm 2020 nhân viên đó có thể xin hoàn thế tại chi cục thuế Hai Bà Trưng được không ạ (Nhân viên đó hiện không làm việc cho một công ty nào)?

Trả lời:

Căn cứ các điểm c và d, khoản 2, Điều 16 Thông tư số 156/2013/TT-BTC, đã được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 3 Điều 21 Thông tư số 92/2015/TT-BTC, hướng dẫn như sau:

“c) Nơi nộp hồ sơ khai thuế

c.2) Nơi nộp hồ sơ quyết toán thuế

c.2.3) Trường hợp cá nhân không ký hợp đồng lao động, hoặc ký hợp đồng lao động dưới 03 (ba) tháng, hoặc ký hợp đồng cung cấp dịch vụ có thu nhập tại một nơi hoặc nhiều nơi đã khấu trừ 10% thì quyết toán thuế tại Chi cục Thuế nơi cá nhân cư trú (nơi thường trú hoặc tạm trú).”

Căn cứ theo quy định trên, cá nhân trên phải quyết toán thuế tại Chi cục Thuế nơi cá nhân cư trú (nơi thường trú hoặc tạm trú).