HỘI THẢO KHỞI ĐỘNG “CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG KINH DOANH VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH”

06/09/2014 09:33:57 AM
Ngày 04/6/2014, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) phối hợp với Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tổ chức Hội thảo khởi động “Cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh ”nhằm giới thiệu các hoạt động triển khai Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 của Chính phủ,xác định các nội dung trọng tâm thực hiện giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực trong cạnh tranh trong lĩnh vực thuế và hải quan, nắm bắt và thảo luận các khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp trong việc thực hiện các thủ tục thuế và hải quan hiện nay.

 

Bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội tư vấn Thuế Việt Nam đã tham dự và có bài phát biểu tại Hội thảo với chủ đề “Những vấn đề trong triển khai thủ tục thuế tại Việt Nam” . VTCA trân trọng giới thiệu với bạn đọc toàn văn bài phát biểu của Bà Nguyễn Thị Cúc.

 

Những vấn đề trong triển khai thủ tục thuế tại Việt Nam

 

Nguyễn Thị Cúc

 

Chủ tịch Hội tư vấn thuế Việt nam

 

Nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục thuế

 

Từ ngày từ 01/7/2007, Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 có hiệu lực thi hành. Luật đã thống nhất việc quản lý các loại thuế, phí, các khoản thu khác thuộc NSNN do cơ quan thuế quản lý thu theo quy định, thay vì trước đây việc quản lý thuế được quy định ở tất cả các luật chính sách nên thiếu tính đồng bộ, nhất quán.

 

Trong quá trình thực hiện Luật Quản lý thuế thời gian qua, cùng với việc nghiên cứu và hoàn thiện các luật thuế và giải quyết những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn đã cho thấy có một số nội dung về quản lý thuế chưa được quy định cụ thể, chưa phù hợp và sát thực tế. Đòi hỏi từ thực tiễn quản lý hành chính nhà nước về đơn giản hoá thủ tục hành chính, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính thuế, cùng với việc tạo cơ sở pháp lý để hiện đại hoá công tác quản lý thuế như kê khai thuế điện tử, hải quan điện tử, giao dịch với cơ quan quản lý thuế thông qua phương tiện điện tử... đồng thời việc hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới đã tạo nên những tác động tích cực, nhưng cũng xuất hiện thêm những thách thức, ảnh hưởng tiêu cực cho công tác quản lý thuế như tránh thuế, chuyển giá,...

 

Ngày 20/11/2012, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số Điều của Luật quản lý thuế số 21/2012/QH12, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2013. Chính phủ đã ban hành Nghị định 83/2013/NĐ-CP ngày 22/7/2013, và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013  hướng dẫn thi hành Luật Quản lý thuế mới và Nghị định của Chính phủ. Luật quản lý thuế mới đã đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tiễn công tác quản lý thuế của Việt Nam cũng như phù hợp hơn với các chuẩn mực, thông lệ và cam kết quốc tế, góp phần tăng cường quản lý, giám sát công tác quản lý thuế nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia về quyền thu thuế, tạo thuận lợi cho người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế với đất nước

 

Về quản lý thuế có nhiều nội dung được bổ sung sửa đổi theo hướng có lợi cho người nộp thuế, như: giảm tần suất kê khai thuế GTGT, thu nhập cá nhân   từ tháng sang quý cho một số nhóm đối tượng (cơ sở kinh doanh có doanh thu  không quá 20 tỷ đồng/năm, thuế TNCN phát sinh dưới 50 triệu đồng/tháng); Rút ngắn thời gian hoàn thuế GTGT (đối với trường hợp hoàn thuế trước kiểm tra sau từ 15 ngày xuống còn 6 ngày, và đối với trường hợp kiểm tra trước hoàn thuế sau từ 60 ngày xuống 40 ngày). Để ngăn ngừa và hạn chế chuyển giá, Luật bổ sung quy định cho phép cơ quan thuế được áp dụng cơ chế thoả thuận trước về phương pháp xác định giá (APA) với người nộp thuế có các giao dịch với các bên liên kết.

 

Về chính sách thuế cũng được sửa đổi bổ sung theo hướng giảm tỷ lệ điều tiết thuế và từng bước nới rộng chi phí được trừ khi tính thuế, như: từ ngày 01/01/2014 thuế suất thuế TNDN giảm từ 25% xuống 22% và đến 01/01/2016  giảm tiếp còn 20%. Riêng doanh nghiệp có doanh thu không quá 20 tỷ đồng/ năm, thuế suất TNDN giảm từ 25% xuống 20% và đến 01/01/2016 chỉ còn 17%; Chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới  ... đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp, tuy chưa bỏ mức khống chế theo kiến nghị của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng cũng đã được điều chỉnh từ mức khống chế 10% lên 15% trên tổng số chi  phí được trừ khi tính thuế TNDN; Được tính vào chi phí hợp lý các khoản chi cho bảo hiểm không bắt buộc, mang tính an sinh xã hội cho người lao động tới 12 triệu đồng/người-năm; Đặc biệt ưu  đãi thuế TNDN được bổ sung thêm về cả địa bàn và lĩnh vực đầu tư, kể cả đầu tư mở rộng. Thuế TNCN cũng có nhiều cải thiện do Luật sửa đổi điều chỉnh nâng mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế, người phụ thuộc, quy định các trường hợp không phải khai quyết toán thuế năm, qua đó giảm thiểu thủ tục hành chính. Thuế GTGT đã bỏ khống chế thời gian khai bổ sung thuế GTGT đầu vào là 6 tháng mà cho phép doanh nghiệp được khai bổ sung bất cứ thời điểm nào miễn là trước khi cơ quan thuế kiểm tra, thanh tra tại trụ sở doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cho phép kê khai điều chỉnh thuế GTGT đầu vào chỉ một lần đối với các hóa đơn thanh toán trả chậm vào tờ khai tháng 12, thay vì phải điều chỉnh nhiều lần và tính tiền chậm nộp nếu không điều chỉnh kịp thời như trước đây, đã được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao...

 

Cùng với việc sửa đổi hệ thống chính sách thuế và quản lý thuế, cơ sở hạ tầng truyền thông, cơ sở dữ liệu ... phục vụ cho khai thuế điện tử, quản lý thuế theo cơ chế rủi ro cũng được triển khai nhanh. Thực hiện chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020 theo Quyết định số 732/QĐ-TTg ngày 17/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ, ngày 29/11/2012, Tổng cục Thuế đã ban hành Tuyên ngôn ngành Thuế Việt Nam kèm theo Quyết định số 1766/QĐ-TCT ngày 1/11/2012, trong đó xác định những giá trị mà ngành thuế luôn coi trọng, xây dựng và gìn giữ lâu dài đó là “Minh bạch-chuyên nghiệp-liêm chính và đổi mới ” nhằm đảm bảo việc minh bạch chính sách thuế, minh bạch công tác quản lý thuế; Công khai đầy đủ, rõ ràng tất cả thủ tục hành chính thuế từ Trung ương đến địa phương; Luôn luôn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người nộp thuế. Công chức, viên chức thuế phải là những người có đầy đủ năng lực, kiến thức chuyên môn, được đào tạo bài bản và thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ, đạo đức, văn hoá công sở, kỹ năng làm việc thành thạo, tậm tâm trong công việc, thân thiện với người nộp thuế và coi người nộp thuế là đối tượng để phục vụ.

 

Như vậy, về giác độ chính sách, quan điểm, mục tiêu, biện pháp đã thể hiện quyết tâm cải cách quy trình, hồ sơ và thủ tục nộp thuế ở tất cả mọi phương diện nhằm hướng đến phục vụ người nộp thuế, được thể hiện bởi cam kết của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Bùi Văn Nam: “Ngành Thuế cam kết trước Đảng, Nhà nước, các tổ chức cá nhân và cộng đồng xã hội đòi hỏi toàn thể công chức, viên chức ngành Thuế phải quyết tâm thực hiện và đạt được các giá trị đã cam kết. Cơ quan thuế sẽ đẩy mạnh tuyên truyền đến tất cả người nộp thuế và cộng đồng xã hội, trong đó sẽ tập trung nêu bật ý nghĩa, mục đích và cán bộ công chức có thể tự hào về giá trị do ngành thuế đem lại, từ đó tin tưởng hơn vào cơ quan thuế...”

 

Trong thực tế, hệ thống chính sách thuế và quản lý thuế thực sự là đa dạng, chi tiết, khó khăn cho việc đáp ứng đồng bộ các yêu cầu, mục tiêu đề ra, ví dụ: thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều doanh nghiệp thì có thể lại tạo cơ hội cho một số doanh nghiệp làm ăn không chính đáng luồn lách, trốn thuế. Muốn đơn giản nhưng thực tế lại đa dạng, đơn giản quá lại khó thực hiện v.v...

             

Do vậy trong thời gian qua, dù ngành thuế đã có nhiều cố gắng nỗ lực, những đổi mới, đóng góp của ngành thuế đã được các doanh nghiệp cảm nhận và đánh giá cao, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn nhiều khó khăn trong triển khai thực hiện, thể hiện trên các vấn đề chủ yếu sau:

           

Thứ nhấtViệc ban hành văn bản pháp quy thực hiện thiếu sự thống nhất, rõ ràng khó thực hiện và có thể nói là chưa đạt yêu cầu mà Lãnh đạo Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải Quan đề ra là: rõ ràng, minh bạch, hiệu quả  như: quy định hóa đơn chứng từ để kê khai khấu trừ, hoàn thuế GTGT; các chi phí được trừ hay không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNCN; Ví dụ: việc xuất hóa đơn, tính thuế đối với hàng nông sản chưa qua chế biến hoặc chỉ qua sơ chế thông thường hướng dẫn khó thực hiện do một quy định lại phải đáp ứng các mục đích khác nhau: chống gian lận trong việc khấu trừ hoàn thuế GTGT, rút ruột tiền hoàn thuế do lập doanh nghiệp ma để có thuế GTGT đầu vào; đồng thời điều tiết tiêu dùng xã hội. Mặc dù Bộ Tài chính, Tổng cục thuế đã có các văn bản hướng dẫn tiếp theo sau Thông tư nhưng thực hiện vẫn còn vướng mắc.

 

Trong các văn bản chính sách thuế vẫn còn một số nội dung hướng dẫn chưa rõ ràng dẫn đến có cách hiểu khác nhau giữa người nộp thuế với cơ quan thuế và thậm chí giữa các cơ quan thuế cũng hiểu văn bản hướng dẫn khác nhau.

           

 Vấn đề quản lý thuế liên quan đến hộ, cá nhân kinh doanh có mức doanh thu dưới ngưỡng (từ 100 triệu đồng/năm trở xuống) và cá nhân không kinh doanh có phát sinh doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ còn vướng mắc tồn tại cho cả cơ quan thuế và các doanh nghiệp. Ví dụ: doanh nghiệp mua hàng hóa, dịch vụ, thu mua phế liệu ... từ các đối tượng trên để phục vụ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần hóa đơn để hạch toán chi phí mua vào, các hộ, cá nhân này chỉ có thể xin cấp hóa đơn lẻ từ cơ quan thuế cho mỗi lần bán hàng. Đối với người lao động phổ thông cũng như hộ, cá nhân kinh doanh ở vùng nông thôn thì thủ tục để được cấp hóa đơn lẻ là không đơn giản. Hơn nữa, đã có trường hợp cá nhân có nhà cho thuê đề nghị cơ quan thuế cấp hóa đơn lẻ để nộp thuế và giao cho người thuê, nhưng cơ quan thuế không chấp nhận, dựa theo quy định của Luật thuế GTGT về ngưỡng doanh thu dưới 100 triệu đồng/năm không phải nộp thuế GTGT, do đó không cấp hóa đơn, v.v...

 

Thứ hai: Một số văn bản hướng dẫn thực thi pháp luật thuế ban hành chậm so với hiệu lực thi hành dẫn đến khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện. Ví dụ: việc doanh nghiệp đăng ký mẫu áp dụng phương pháp tính thuế GTGT, theo phản ảnh từ phía doanh nghiệp, trong tháng 4 năm 2014, một số doanh nghiệp nộp mẫu  06/GTGT để đăng ký áp dụng phương pháp khấu trừ thuế, nhưng một số cán bộ thuế tại Chi cục thuế địa phương không nhận vì quá hạn?

 

Luật số 32/2013/QH13 ngày 19 tháng 6 năm 2013 sửa đổi bổ sung một số Điều của Luật thuế TNDN đã có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2014 nhưng đến  thời điểm này vẫn chưa có Thông tư hướng dẫn thực hiện. Dẫu biết rằng, Thông tư hướng dẫn mới có nhiều nội dung khó, phức tạp, cần nghiên cứu, xem xét, cân nhắc, xin ý kiến trước khi ban hành nhưng việc chậm ban hành vẫn gây khó khăn cho doanh nghiệp trong kê khai, tính thuế (kể cả trường hợp Thông tư hướng dẫn áp dụng cho cả năm tính thuế 2014).

 

Trong một động thái tích cực, khi chưa ban hành Thông tư hướng dẫn, Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế đã có công văn chỉ đạo các ban ngành lưu ý thực hiện các nội dung mới trong lúc chưa có thông tư hướng dẫn, nhưng văn bản chỉ gửi đến các Cục Thuế nên các doanh nghiệp, ban ngành không nắm bắt được nội dung để triển khai.

 

Thứ ba: Việc ứng dụng thông tin trong ngành Thuế, Hải quan đã được tăng cường tốt. Tuy nhiên, do điều kiện cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng hệ thống truyền thông chưa đảm bảo nên gây nghẽn mạng trong thời gian kê khai thuế.  Đối với công tác thông quan còn có trường hợp thiếu đồng bộ trong ứng dụng CNTT, khai thuế điện tử dẫn đến hàng hóa bị ách tắc.

 

Thứ tư: Công tác thanh tra, kiểm tra tại doanh nghiệp còn chồng chéo, doanh nghiệp là đối tượng thanh tra, kiểm tra của nhiều cơ quan như: cơ quan thuế; công an, thanh tra tài chính, thanh tra chính phủ, kiểm toán nhà nước… Công tác thanh tra, kiểm tra là cần thiết và phải tiến hành, nhất là theo phương thức nộp thuế theo cơ chế tự khai, tự tính, tự nộp. Tuy nhiên, việc thanh tra,  kiểm tra nên tránh chồng chéo về nội dung, thời gian. Các cơ quan thanh, kiểm tra thường hoạt động với tư cách độc lập, không sử dụng kết quả của đơn vị trước nên gây nhiều tốn kém chi phí của doanh nghiệp và xã hội. Công tác thanh tra, kiểm tra ngoài việc ngăn chặn hành vi gian lận thuế, sai phạm về kinh tế, còn có tác dụng chấn chỉnh hạch toán tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, các đoàn kiểm tra còn nặng về chỉ tiêu kế hoạch và số tiền thuế truy thu.

 

Thứ nămVề văn hóa ứng xử của cán bộ viên chức, có thể nói, vấn đề đạo đức nghề nghiệp và văn hóa ứng xử của cán bộ công chức Nhà nước với nhân dân còn nhiều tồn tại. Cán bộ công chức hưởng lương từ NSNN, mà NSNN chủ yếu là tiền thuế của các doanh nghiệp, doanh nhân đóng góp, nhưng không ít cán bộ công chức chưa hiểu rõ đạo lý đó để phục vụ nhân dân mà còn có tư tưởng mình là người quản lý ... ngành Thuế, Hải quan cũng có trường hợp cá biệt như vây.

 

Nếu chúng ta cố gắng cải cách chính sách, cải cách quản lý, nhưng con người thực hiện chưa thay đổi kịp tư duy thì thật khó có thể cải cách thành công.  Chúng tôi hy vọng các bộ ngành nhanh chóng biến tuyên ngôn của mình thành hiện thực, cũng như tuyên ngôn “Minh bạch-chuyên nghiệp-liêm chính và đổi mới” của ngành thuế  sớm đi vào cuộc  sống  để giúp doanh nghiệp tránh  được rào cản trở ngại, khó khăn. 

 

           

Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, đã đưa ra yêu cầu với ngành thuế: Cải cách quy trình, hồ sơ và thủ tục nộp thuế và rút ngắn thời gian các doanh nghiệp phải tiêu tốn để hoàn thành thủ tục nộp thuế đạt mức trung bình của nhóm nước ASEAN-6 (mức trung bình của nhóm nước ASEAN-6 là 171 giờ/năm); Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế, hải quan, kho bạc một cách toàn diện, hiện đại; triển khai có hiệu quả mô hình một cửa liên thông, tăng cường trách nhiệm phối hợp của các cơ quan liên quan trong thực hiện thủ tục hành chính thuộc các lĩnh vực này để tạo chuyển biến mạnh mẽ ngay từ năm 2014. Công khai, minh bạch về thủ tục hành chính thuế, hải quan để doanh nghiệp và người dân dễ tiếp cận và giám sát việc thực hiện; tăng cường đối thoại giữa doanh nghiệp với các cơ quan thuế, hải quan về những khó khăn, vướng mắc để xử lý kịp thời...

 

Để đạt được mục tiêu đó, các hành động của cơ quan quản lý nhà nước về thuế trước hết, cần hướng tới khắc phục các tồn tại hiện tại doanh nghiệp, người nộp thuế đang đối mặt như đã phân tích trên. Mặt khác, nền kinh tế ngày càng phát triển, số lượng doanh nghiệp không ngừng tăng, hệ thống chính sách tài chính, thuế cũng đồng thời được hoàn thiện nên có nhiều sửa đổi bổ sung. Làm sao để doanh nghiệp có thể nắm bắt và hiểu biết một cách đầy đủ chính sách chế độ? Làm thế nào để nâng cao hiệu quả và hiệu lực công tác quản lý thuế? Đặt hết gánh nặng trách nhiệm to lớn này lên đội ngũ cán bộ thuế sẽ có hạn chế kết quả. Để xử lý vấn đề này, tại Quyết định số 732/QĐ-TTg ngày 17/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020 đã nêu: nghiên cứu việc xã hội hóa trong hoạt động cấp phép đối với đại lý thuế, chứng chỉ hành nghề dịch vụ về thuế; nâng cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức Đại lý thuế ... Ngày 03/3/2014, Bộ Tài chính cũng đã ban hành Quyết định số 420/QĐ-BTC về việc phê duyệt Kế hoạch phát triển hệ thống đại lý thuế đến năm 2020.

 

Kế hoạch đã chỉ ra mục tiêu tổng quát là “Phát triển hệ thống đại lý thuế theo hướng: Đẩy mạnh việc xã hội hoá hoạt động hỗ trợ người nộp thuế tạo tiền đề nhằm tăng dần số lượng đại lý thuế và nâng cao chất lượng dịch vụ do đại lý thuế cung cấp; mở rộng, đa dạng hoá dịch vụ của đại lý thuế. Xây dựng hệ thống đại lý thuế thực sự trở thành cầu nối giữa cơ quan thuế và người nộp thuế;        hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế tuân thủ pháp luật thuế;    giảm chi phí về thời gian, nguồn lực cho cả cơ quan thuế và người nộp thuế thực thi pháp luật thuế góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế.”

 

 Ở các nước như Nhật bản, Hàn quốc, Đức... trên 90% doanh nghiệp kê khai nộp thuế qua hệ thống đại lý thuế. Do các Đại lý thuế là doanh nghiệp hoạt động có điều kiện, có khả năng chuyên sâu về  nghiệp vụ thuế. Thực hiện khai thuế qua đại lý thuế vừa giảm thiểu chi phí kê khai thuế, vừa giảm thiểu rủi ro nghề nghiệp cho cả cán bộ thuế và người nộp thuế.

           

Hiện tại trong cả nước mới chỉ có 160 doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực đại lý thuế và mới chỉ có chưa đến 700 doanh nghiệp khai thuế qua đại lý thuế.

           

Vấn đề là làm thế nào để nâng cao nhận thức của cán bộ thuế, người nộp thuế về sự cần thiết, lợi ích do sử dụng dịch vụ đại lý thuế mang lại, giảm thiểu quan hệ trực tiếp giữa cán bộ thuế và người nộp thuế, tạo cơ chế khuyến khích người nộp thuế sử dụng dịch vụ đại lý thuế. Cần phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế và pháp luật có liên quan, tạo một số ưu đãi về mặt thủ tục cho người nộp thuế sử dụng dịch vụ đại lý thuế và cơ chế để đại lý thuế tham gia giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh và sử dụng hóa đơn đối với người nộp thuế mới thành lập... Những nội dung này đã được Bộ Tài chính quán triệt tại Quyết định số 420/QĐ-BTC.

 

Để hiện thực hóa các chỉ tiêu cụ thể của kế hoạch chiến lược, cần có các biện pháp triển khai đồng bộ, kiểm tra kiểm soát thực hiện chặt chẽ trong toàn hệ thống thuế, chúng tôi tin tưởng ngành thuế sẽ sớm đạt được mục tiêu của Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 của Chính phủ, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp vượt qua khó khăn, ổn định và tiếp tục phát triển. Doanh nghiệp càng phát triển, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao chính là tiền đề để đảm bảo ổn định nền kinh tế, tăng nguồn lực tài chính cho đất nước./.

Theo VTCA