Bản tin thuế số 02 tháng 01 năm 2020

01/20/2020 10:00:06 AM
Hội Tư vấn thuế Việt Nam trân trọng gửi tới Quý bạn đọc bản tin thuế số 02 tháng 01 năm 2020

1. Công văn số 5596/TCT-DNNCN ngày 31/12/2019 về việc hướng dẫn chính sách thuế đối với hộ gia đình, cá nhân

Đề nghị Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P Việt Nam - Chi nhánh liên hệ với cơ quan thuế quản lý, căn cứ thực tế và các điều khoản tại hợp đồng ký với cá nhân để xác định nếu hình thức hợp tác kinh doanh với cá nhân là đối tượng trực tiếp sản xuất, gia công chăn nuôi cho Công ty thì Công ty được lập Bảng kê thu mua hàng hóa, dịch vụ theo diện mua hàng hóa là nông, lâm, thủy sản của người sản xuất, đánh bắt trực tiếp bán ra theo mẫu 01/TNDN kèm theo Thông tư số 78/2014/TT-BTC mà không yêu cầu phải có hóa đơn.

2. Công văn số 5597/TCT-DNNCN ngày 31/12/2019 về vướng mắc trong thực hiện tính và thông báo tiền chậm nộp thuế sử dụng đất phi nông nghiệp

Về việc thông báo tiền chậm nộp thuế SDĐPNN của cá nhân, hộ gia đình năm 2019, Tổng cục Thuế ghi nhận đề xuất của Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh. Số tiền thuế nợ, tiền phạt, tiền chậm nộp của kỳ 2019 (nếu có) đối với cá nhân, hộ gia đình sẽ được thông báo vào năm 2020.

Tổng cục Thuế cũng ghi nhận đề xuất của Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh theo hướng thông báo số tiền thuế phải nộp và tiền chậm nộp đối với thuế SDĐPNN của cá nhân, hộ gia đình trên cùng một mẫu Thông báo và sẽ tổng hợp để trình Chính phủ, Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung các mẫu biểu hiện hành tại các chương trình xây dựng văn bản pháp luật có liên quan.

3. Công văn số 5600/TCT-DNL ngày 31/12/2019 về chính sách thuế đối với bán tài sản bảo đảm

Trường hợp Ngân hàng BIDV cho Công ty Hòa Phú vay vốn và Công ty không có khả năng trả nợ đã ủy quyền cho Ngân hàng BIDV được quyền xử lý, bán tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ. Ngân hàng BIDV ký hợp đồng với Công ty CP Dịch vụ Đấu giá Miền Nam để bán đấu giá tài sản bảo đảm và Ngân hàng BIDV là đơn vị xuất hóa đơn bán tài sản bảo đảm thì Công ty CP Dịch vụ Đấu giá Miền Nam xuất hóa đơn cho Ngân hàng BIDV đối với chi phí bán đấu giá.

Trường hợp Công ty Hòa Phú yêu cầu Ngân hàng BIDV xuất hóa đơn cho Công ty đối với chi phí bán đấu giá để ghi nhận chi phí là không phù hợp, căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 17 Thông tư số 78/2014/TT-BTC thì chi phí đấu giá đã được tính vào giá vốn để tính thuế TNDN đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản.

4. Công văn số 5611/TCT-CS ngày 31/12/2019 về hóa đơn điện tử đối với hệ thống thu phí tự động một dừng

Căn cứ các quy định hiện hành, theo tài liệu kèm theo công văn số 37784/CT-TTHT ngày 24/5/2019 của Cục Thuế TP Hà Nội và công văn số 421/VETC-KT ngày 23/8/2019 của Công ty TNHH thu phí tự động VETC, tại Hợp đồng xây dựng - sở hữu - kinh doanh (Hợp đồng BOO) số 09/HĐ.BOO-BGTVT ngày 13/7/2016 ký giữa Bộ Giao thông vận tải và Liên danh Công ty cổ phần Tasco và Công ty Cổ phần VETC (Nhà đầu tư), Công ty TNHH thu phí tự động VETC được đứng tên, dưới danh nghĩa là đơn vị cung cấp Dịch vụ thu phí, phát hành chứng từ thu phí một dừng cho Chủ phương tiện/Chủ tài khoản giao thông để thực hiện thu phí từ khách hàng khi lưu thông qua trạm thu phí tự động một dừng (MTC) theo đúng giá quy định của Bộ Tài chính và được hưởng phí dịch vụ thu phí thì việc sử dụng hóa đơn, kê khai nộp thuế đối với các nhà đầu tư BOT và Công ty TNHH thu phí tự động VETC thực hiện như sau:

1. Về Hóa đơn:

Công ty TNHH thu phí tự động VETC thực hiện đăng ký và gửi Thông báo phát hành vé điện tử kèm theo vé điện tử mẫu đến cơ quan thuế theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Thông tư số 32/2011/TT-BTC ngày 14/3/2011 của Bộ Tài chính.

Công ty TNHH thu phí tự động VETC trực tiếp lập vé điện tử thu phí và giao cho khách hàng sau khi đã lưu thông qua trạm trên làn thu phí MTC.

Định kỳ, Công ty TNHH thu phí tự động VETC và nhà đầu từ BOT thực hiện đối soát dữ liệu doanh thu thu phí và lập Bảng kê thu phí. Căn cứ vào dữ liệu thu phí và bảng kê thu phí, nhà đầu từ BOT lập HĐĐT giao trực tiếp cho VETC đối với khoản doanh thu thu phí của nhà đầu tư BOT, đồng thời VETC lập HĐĐT giao cho nhà đầu tư BOT đối với khoản phí dịch vụ được hưởng.

2. Về kê khai, nộp thuế:

- Đối với nhà đầu tư BOT: căn cứ hóa đơn đã lập và giao cho Công ty TNHH thu phí tự động VETC, nhà đầu tư BOT kê khai, nộp thuế GTGT đầu ra theo quy định đối với khoản doanh thu thu phí của nhà đầu tư BOT.

- Đối với Công ty TNHH thu phí tự động VETC: căn cứ hóa đơn đã lập và giao cho nhà đầu tư BOT, Công ty TNHH thu phí tự động VETC kê khai, nộp thuế GTGT đầu ra đối với khoản phí dịch vụ được hưởng, không kê khai, tính thuế GTGT đối với khoản tiền thu phí từ khách hàng thu hộ nhà đầu tư BOT.

- Đối với khách hàng có phương tiện giao thông qua trạm: được sử dụng Vé điện tử (hoặc thông tin trên Vé điện tử tra từ hệ thống của VETC) để xác định nghĩa vụ thuế theo quy định.

Công ty TNHH thu phí tự động VETC và nhà đầu tư BOT chịu trách nhiệm về tính chính xác của dữ liệu thu phí để kê khai nộp thuế.

3. Về tên, địa chỉ, mã số thuế, chữ ký người mua:

Do đặc thù hoạt động thu phí tự động một dừng, trường hợp Công ty TNHH thu phí tự động VETC là đơn vị cung cấp dịch vụ thu phí tự động sử dụng Vé điện tử trong hoạt động thu phí tự động một dừng, trên Vé điện tử đã thể hiện biển số xe, thời điểm qua trạm thì trên Vé điện tử không nhất thiết phải có tên, địa chỉ, mã số thuế, chữ ký điện tử của người mua.

5. Công văn số 5612/TCT-CS ngày 31/12/2019 về hóa đơn điện tử

- Trường hợp áp dụng hóa đơn điện tử theo Nghị định số 51/2010/NĐ-CP, Thông tư số 39/2014/TT-BTC, Thông tư số 32/2011/TT-BTC thì thời điểm lập hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ thực hiện theo quy định tại khoản 2 điều 16 Thông tư số 39/2014/TT-BTC. Khi lập hóa đơn điện tử phải có đầy đủ các nội dung của hóa đơn điện tư theo quy định tại Điều 6 Thông tư số 32/2011/TT-BTC.

- Trường hợp áp dụng hóa đơn điện tử theo Nghị định số 119/2018/NĐ-CP, Thông tư số 68/2019/TT-BTC thì thời điểm lập hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ thực hiện theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 119/2018/NĐ-CP, Thông tư số 68/2019/TT-BTC và phải có đầy đủ các nội dung của hóa đơn điện tử theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 119/2018/NĐ-CP.